ĐỊNH NGHĨA
Hình 1. Trĩ nội và trĩ ngoại
Hình 2. Trĩ hỗn hợp
DỊCH TỄ HỌC
Bệnh trĩ là bệnh thường gặp ở mọi nước trên thế giới. Nhiều thống kê ở nước ngoài cho thấy tỷ lệ bệnh ở người trên 50 tuổi là 50% và có khoảng 5% dân số mắc bệnh trĩ. Xuất độ bệnh trĩ gia tăng theo tuổi. Tỷ lệ bệnh trĩ ở phái nam gấp đôi phái nữ.
Nghiên cứu thống kê cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trĩ ở Ethiopia là 13,1% (2021); Israel là 16% (2009) và Hàn Quốc là 14,4% (2014); Ai Cập là 18% (2011) và Áo là 38,9% (2019).
Tại Việt Nam, tỉ lệ mắc bệnh trĩ là 55% ở các tỉnh phía Bắc (Nguyễn Mạnh Nhâm, 2004) và 18,77% ở nhóm trên 50 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh (Trần Thiện Hoà, 2006).
Hình 3. Các yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ
Yếu tố nguy cơ
SINH LÝ BỆNH
Sự ứ huyết và phì đại đệm trĩ trên đường lược gây ra trĩ nội. Vì có sự thông nối với những tĩnh mạch nằm dưới đường lược, nên trĩ ngoại có thể xuất hiện. Những đợt ứ huyết tĩnh mạch lặp đi lặp lại làm giãn niêm mạc và da tầng sinh môn và sa xuống dưới.
Một số cơ chế bệnh sinh gây nên bệnh trĩ:
Rối loạn điều hòa shunt động tĩnh mạch tại vị trí các đệm hậu môn.
Dòng máu trở về qua ngả tĩnh mạch trĩ trên không tốt làm cho đệm trĩ lớn dần.
Tăng áp lực ổ bụng khi bón, khi tiểu khó và lúc mang thai làm cản trở hồi lưu tĩnh mạch làm cho các đệm trĩ lớn dần.
Tăng trương lực cơ thắt kéo dài làm giảm lượng máu trở về qua shunt xuyên cơ thắt cũng làm cho đệm trĩ dãn ra.
TRIỆU CHỨNG
Hình 4. Các triệu chứng của bệnh trĩ
Là triệu chứng thường gặp nhất. Lúc đầu máu chảy kín đáo, có thể dính vào giấy vệ sinh hoặc có vài vệt máu dính vào cục phân cứng. Nặng hơn, máu có thể chảy thành giọt và thậm chí có thể chảy thành tia như cắt cổ gà.
Sa trĩ
Cũng là triệu chứng thường gặp. Dựa vào mức độ sa của trĩ nội, người ta chia ra làm 4 độ
Bảng 1. Phân độ trĩ nội
Trĩ sa độ 3 và độ 4 làm bệnh nhân rất khó chịu ở hậu môn và hậu môn thường bị ướt.
Đau
Là triệu chứng ít gặp hơn. Đau có thể do:
Trĩ nội: độ 1 và độ 2 thường không nhìn thấy gì. Đối với trĩ độ 3 nếu banh rộng mép hậu môn hoặc yêu cầu bệnh nhân rặn mạnh, có thể thấy các búi trĩ màu tím, phồng lên, 3 vị trí của các búi trĩ chính ở 4, 8 và 11 giờ. Độ 4 các búi trĩ thường xuyên lòi ra ngoài, nếu sa nhiều và cả 2 bên trông giống như bông hồng.
Trĩ ngoại: Nhìn thấy ở rìa lỗ hậu môn những chỗ phồng lên, làm da mất nếp nhăn và tùy theo giai đoạn của bệnh có thể thấy biến chứng tắc mạch, nhiễm trùng hay xơ hóa tạo thành các mẩu da thừa.
BIẾN CHỨNG
Hình 5. Các biến chứng của bệnh trĩ
Nhiễm trùng: Viêm nhú (papillitis) và khe (cryptitis)
Biểu hiện lâm sàng bởi cảm giác nóng rát và ngứa ở hậu môn. Thăm trực tràng rất đau và thấy cơ thắt giãn nở kém. Soi hậu môn, thấy các nhú bị phù nề, màu trắng, các khe nằm giữa các búi trĩ bị loét nông, màu đỏ.
Nghẽn mạch (thrombosed)
Khi có các cục máu đông được hình thành trong các búi trĩ. Biểu hiện là khối sưng đau quanh hậu môn, đau nhiều nhất trong 48 giờ đầu, giảm nhiều sau 4 ngày (bệnh ngày 5). Nếu diễn tiến tự nhiên, áp lực từ cục máu đông bên dưới gây hoại tử da quanh búi trĩ và cục máu đông bị đẩy ra hay cục máu đông sẽ tiêu dần và bệnh khỏi sau 10 - 14 ngày. Vài ba tuần sau hình thành một mẩu da thừa.
Sa và nghẹt búi trĩ
Trĩ nội trong lòng ống hậu môn có thể bị sa ra ngoài và bị kẹt không trở vào ống hậu môn được. Khối trĩ bị nghẹt có thể một phần hoặc toàn bộ.
Xơ hóa
Các búi trĩ khi bị xơ hóa sẽ trở thành các mẩu da thừa. Mẩu da thừa không đau, không gây chảy máu, chúng chỉ gây vướng hoặc hơi khó khăn cho vệ sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ThS. Kim Ngọc Sơn
ThS. Ong Thị Tuyết